EIGRP – ENHANCED INTERIOR GATEWAY ROUTING PROTOCOL (Phần 3)
EIGRP Summarization
- Làm giảm độ lớn của bảng định tuyến.
- Làm giảm các thông tin định tuyến được cập nhật.
- Automatic summarization:
- Các subnet được tự động tóm tắt thành classful network.
- Đây là cấu hình mặc định trong EIGRP
- Manual summarization.
Automatic summarization
Trong quá trình cấu hình, bạn nên tắt tính năng Automatic summarization của EIGRP vì nó có thể gây ra vấn đề cho quá trình định tuyến.

Hãy nhìn vào mô hình phía trên. Chúng ta có 3 router và chúng được cấu hình chạy EIGRP. Hãy chú ý đến 2 network 172.16.1.0 và 172.16.2.0. EIGRP mặc định sẽ tự động tóm tắt (summarize) 2 network này thành classful network. Các bạn có thể hiểu rõ hơn khi xem lại hoạt động của Distance Vector.

Router Spade và router Clubs sẽ không gửi kèm subnet mask trong các gói tin Update của mình và nó sẽ quáng bá 2 network 172.16.1.0 và 172.16.2.0 với network ở dạng classful là 172.16.0.0. Điều gì sẽ xảy ra với Router Hearts. Router Hearts sẽ nghĩ rằng sẽ có 2 con đường dần tới network 172.16.0.0 và nếu metric bằng nhau thì nó sẽ chạy load-balance trên 2 con đường này gây ra lỗi định tuyến.

Thực hiện lệnh no auto-summary để chắc chắn rằng router sẽ hoạt động định tuyến theo kiểu classless và gửi subnet mask trong các gói tin Update của mình.

Sau khi đã thực hiện lệnh no auto-summary, điều chúng ta mong muốn là Router Spade và router Clubs đã gửi đúng thông tin định tuyến tới Router Hearts trong các bản tin Update.
Manual summarization
Bây giờ, chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu Manual summarization để có thế biết được nhiều điều thú vị hơn. Như trong hình phía dưới, chúng ta có router Jack và John, router Jack có chứa các mạng:
- 168.0.0 / 24
- 168.1.0 / 24
- 168.2.0 / 24
- 168.3.0 / 24
Khi chúng ta cấu hình EIGRP cho 2 router, tất cả 4 mạng trên sẽ được quảng bá và được nhìn thấy trong bảng định tuyến của router John

Bảng định tuyến trên Router John:

Bây giờ, hãy tìm hiểu cách cấu hình để tạo ra một bản tóm tắt định tuyến trên router Jack để giảm kích thước của bảng định tuyến của router John. Việc tạo bản tóm tắt trên EIGRP được thực hiện khá dẽ dàng và bạn có thể làm việc này trên bất kỳ interface nào bạn muốn.

Ở đây, chúng ta tóm tắt 4 mạng thành 192.168.0.0/22. Bạn cần phải xác định được đúng subnet mask và đúng tham số AS sử dụng cho EIGRP để có thể gửi đúng trên các gói tin. Và sau đó, bạn có thể nhìn thấy được sự thay đổi trong bảng định tuyến của router John.

Trên đây là bảng định tuyến của router John, chúng ta đã giảm số lượng entry của 4 mang đó xuống chỉ còn 1 enrty.

Không chỉ duy nhất router John có sự thay đổi trong bảng định tuyến của mình mà còn có router Jack. Hãy nhìn vào bảng định tuyến của router Jacj như hình trên và chú ý vào entry cuối cùng. Mạng 192.168.0.0/22 được tạo ra và được gửi tới Null0. Interface Null0 ở đây có nghĩa giống như một lỗ đen (black hole) “hút” các gói tin vào và không cho phép gói tin quay trở lại. Một lần nữa chúng ta cảm thấy rất nhức đầu về khái niệm khác của EIGRP. Tại sao EIGRP là phải tạo ra điều này và nó có mục đích gì? Hãy cùng nhau xem qua ví dụ sau đây:

- 168.0.0 / 24
- 168.1.0 / 24
- 168.2.0 / 24
- 168.3.0 / 24

Chúng ta sẽ có 2 vấn đề cần đề cập tại đây:
- Có thêm 1 entry mới trong bảng định tuyến là 192.168.0.0/16
- Chúng ta có thể thấy là bản tóm tắt sau không ghi đè lên bản tóm tắt trước đó. Bạn phải tự mình thực hiện việc này bằng tay trên router Jack.
Tiếp theo, điều gì sẽ xãy ra khi chúng ta thử một lệnh ping từ router John tới một địa chỉ IP thuộc vùng mạng 192.168.0.0/16 nhưng không được cấu hình trên bất kỳ giao diện nào của router Jack.
Như bạn có thể thấy là chúng ta không thể ping tới địa chỉ 192.168.200.20 và nhận được thông báo unreachable.

Bây giờ, chúng ta hãy cùng qua router Jack và cùng nhau debug gói tin, sử dụng lệnh Debug ip packet.

Các gói tin được gửi tới đây và đi vào đường Null0 và nó sẽ “ra đi mãi mãi” (drop). Tại sao EIGRP lại phải thực hiện việc này? Có một lý do ở đây là nếu có thêm 1 router thứ 3 và router Jack có một đường default route trỏ đến router này? Nếu không có đường Null0 thì nó sẽ gửi các gói tin này tới router kia và có thể gây ra 1 vòng lặp định tuyến.

Hãy cùng nhau nhìn vào hình trên để hiểu rõ thêm về vấn đề tại sao chúng ta cần đường Null0. Router John có một interface kết nối tới Internet. Router John cấu hình một default route cho kết nối với Internet.
Để router Jack có thể kết nối tới Internet, chúng ta cũng cần phải cấu hình một con đường default route trỏ tới router John.

- Router John có entry tóm tắt về mạng 192.168.0.0 /22 trong bảng định tuyến của nó.
- Router John gửi IP packet có địa chỉ 192.168.200.20 tới router Jack,
- Router Jack không có mạng nào là 192.168.200.X trong bảng định tuyến của mình nên nó sẽ gửi gói tin theo con đường default route.
- Router Jack lại tiếp tục gửi IP packet tới router John.
- Vậy chúng ta đã có một vòng lặp – a routing loop!

Thử một số gói ping khác từ router John đến router Jack.

Khi nhận được các gói tin từ router John, router Jack sẽ tra bảng định tuyến của mình thì địa chỉ 192.168.200.20 phù hợp với entry 192.168.0.0/16 hơn là 0.0.0.0/0 vì vậy gói tin sẽ được gửi vào đường Null0 và đã bị hủy. Như vậy đã không còn xảy ra lỗi vòng lặp định tuyến.
Một lợi ích nữa của việc tạo một bản tóm tắt mạng bên cạnh việc làm giảm kích thước của bảng định tuyến là bạn sẽ có ít thông tin được gửi đi trên các gói tin Update trên mạng.

Hãy nhìn vào mô hình mạng phía trên. Tất cả các router đều chạy EIGRP và phía bên tay trái có một interface down trên router.

Khi có một interface down thì ngay lập tức router sẽ gửi gói tin Update đến các router láng giềng và các router đó sẽ tiếp tục gửi ra các gói tin cập nhật cho toàn bộ hệ thống mạng chạy EIGRP. Tất cả hệ thống mạng cần phải cập nhật lại chỉ vì 1 mạng bị down. Và bản tóm tắt có thể làm giảm việc này.

Nếu chúng ta có một bản tóm tắt được gửi ra từ router bến tay trái đã được gửi tới các router phía tay phải. Cho đến khi 1 interface này bị down. Tất cả các router bên phía tay phải không nhận được các gói tin Update vì thật chất router bên phía tay trái chỉ gửi ra các thông tin đã tóm tắt trước đó rồi.
Những điều bạn cần nhớ về EIGRP summarization (tóm tắt mạng trong EIGRP):
- Ngay khi bạn xóa bản tin tóm tắt cuối cùng trong các tóm tắt đã cấu hình, con đường tóm tắt sẽ tự động xóa khỏi bảng định tuyến.
- Metric thấp nhất trong các tuyến đường cụ thể được tóm tắt sẽ được dùng làm metric cho tuyến đường tóm tắt.
- Bạn cũng có thể gán một giá trị AD khác cho tuyến đường tóm tắt.
Đó là tất cả những gì về EIGRP summarization. Nếu bạn muốn hiểu rõ hơn về EIGRP summarization, bạn có thể tham khảo thêm:
EIGRP over Frame-Relay
Nếu bạn đã học qua chương trình CCNA, bạn đã biết qua về frame-relay và khái niệm có liên quan tới nó:
- NBMA (Non broadcast multi-access network)
- Inverse ARP
- Point-to-point và point-to-multipoint
- Các vấn đề có liên quan tới luật Split-horizon
Giới thiệu về Frame-relay
Frame-relay là một trong những chủ đề mà bạn có thể không thường xuyên gặp nhiều trong quá trình làm việc của mình, tuy nhiên nó vẫn là một công nghệ được đưa vào rất nhiều trong các kỳ thi của Cisco. Đối với những bạn chưa biết hay mới bắt đầu tìm hiểu về frame-relay thì trong phần này sẽ tập trung giới thiệu tổng quan về chủ đề frame-relay này.

Đây là một hình ảnh về frame-relay. Ý tưởng đằng sau frame-relay là bạn có thể thuê một phần cơ sở hạ tầng của các nhà cung cấp dịch vụ và bạn có thể kết nối vào đây, từ đó có thể chia sẽ dữ liệu được với các chi nhánh khác của công ty của bạn.
Ở phần giữa của hình trên, ta thấy một đám mây (cloud) và một icon. Icon này đại diện cho một frame-relay switch. Đám mây được gọi là frame-relay cloud – đám mây frame-relay và lý do nó có tên như vậy là vì các khách hàng có thể kết nối vào và sử dụng tuy nhiên họ không hề biết những gì đang hoạt động trong đám mây frame-relay này.
Bạn có thấy những điểm khác nhau trong hình trên? Chúng ta có 2 khách hàng (A và B), và mỗi khách hàng có một HQ (Headquarters – Trụ sở chính) và một văn phòng chi nhánh (branch office).

Tiếp theo cũng là một hình ảnh về frame-relay, trong hình có một đám mây frame-relay với ba router của một công ty kết nối tới đám mây này. Có một HQ (Headquarters – Trụ sở chính) và hai văn phòng chi nhánh (branch office).

- Branch office 1 và HQ.
- Branch office 2 và HQ.

- Thông báo với chúng ta biết PVC ở trạng thái active hay inactive.
- Cung cấp cho chúng ta một DLCI (Data Link Connection Identifier). Chúng ta sẽ đề cập vấn đề này ở phần phía sau.
- Cisco
- ANSI T1.617 Annex D
- ITU-T Q.933 Annex A

Trên đây là ví dụ hoạt động của LMI. Ở giữa là một frame-relay Switch. Các gói tin LMI được gửi đi giữa Router A với frame-relay Switch, Router B với frame-relay Switch. frame-relay Switch sẽ thông báo cho các router PVC đang ở trạng thái active.
Những vấn đề khác mà bạn nên biết để có thể hiểu về frame-relay? Chúng ta hãy cùng nhau xem lại về mô hình OSI:

Các giao thức chạy trên mạng WAN sẽ chạy trên nền physical (layer 1) và data link (layer 2) layer. Frame-relay là giao thức chạy ở data link (layer 2) layer. Nó không sử dụng MAC addresses như trên môi trường Ethernet mà nó dùng một định nghĩa khác là DLCI (Data Link Connection Identifier).

Đối với mỗi PVC, chúng ta sẽ có một DLCI riêng biệt ứng với mỗi router. Trong ví dụ trên, chúng ta có thể thấy, PVC giữa router HQ and branch office 1 có 2 DLCI, một DLCI có giá trị 102 đối với router HQ và một DLCI có giá trị 201 đối với branch office 1.
PVC giữa router HQ and branch office 2 có 2 DLCI, một DLCI có giá trị 103 đối với router HQ và một DLCI có giá trị 301 đối với branch office 2.
DLCI là một giá trị duy nhất mà không được phép trùng lặp trên các router sử dụng dịch vụ.

- Full-mesh
- Partial-mesh
- Hub and Spoke

Đây là dạng kết nối Full-mesh. Các bạn có thể thấy ở dạng kết nối này các router đều có riêng một PVC kết nối tới các router khác.

Đây là dạng kết nối Partial-mesh. Chỉ có các kết nối giữa các router quan trọng mối có một liên kết PVC.

Đây là dạng kết nối Hub and Spoke. Router ở phía tay trái được gọi là Hub router, các router còn lại là Spoke Nếu các Spoke router muốn truyền thông được với nhau thì nó phải gửi thông qua Hub router.
- RIP, OSPF and EIGRP có thể sử dụng unicast thay vì multicast.
- Có một phương pháp để “emulate – giả lập” để gửi broadcast trên mạng Frame-relay.

Chúng ta còn gặp phải những vấn đề nào giữa frame-relay và các giao thức định tuyến?
Bạn có nhớ những đặc điểm của các giao thức định tuyến Distance Vector (RIP và EIGRP)? Bạn có nhớ gì về luật Split-horizon?
Trong hình phía trên, tất cả các router được cấu hình chạy EIGRP. Router branch office 1 gửi thông tin định tuyến của mình tới router Customer HQ. Nếu bạn xem bảng định tuyến của router HQ thì bạn có thể thấy được các thông tin này.

Bạn có nhớ luật Split-horizon? Khi bạn học được thông tin định tuyến từ người hàng xóm của bạn theo con đường nào thì bạn không được quảng bá thông tin ngược lại theo con đường vừa được nhận. Để cụ thể hơn: Bất cứ điều gì nhận được từ một interface thì không gửi ngược lại theo interface đó.
Như hình trên, chúng ta có 2 PVC sử dụng chung 1 interface vật lý của router Customer HQ. Split-horizon sẽ ngăn chặn việc gửi các thông tin định tuyến vừa mới nhận từ router branch office 1 gửi sang router branch office 2.
Làm thế nào chúng ta có thể giải quyết vấn đề này?
- Bạn có thể disable chức năng split-horizon (default bật trên physical interfaces).
- Bạn có thể sử dụng sub-interfaces.

Nếu bạn sử dụng sub-interface, bạn không cần phải quan tâm tới vấn đề sub-interfaces khi các thông tin định tuyến sẽ được học trên serial0/0.1 và quảng bá trên serial0/0.2
Frame-relay có thể sử dụng kết nối dạng point-to-point sub-interfaces hoặc point-to-multipoint sub-interfaces. Nếu sử dụng kiểu kết nối point-to-point, nó sẽ giúp bạn giải quyết vấn đề của split-horizon nhưng bạn sẽ cần phải sử dụng các subnet IP khác nhau cho mỗi PVC. Vậy còn kết nối kiểu point-to-multipoint sub-interfaces, bạn sẽ gặp vấn đề với split-horizon nhưng chúng ta có thể sử dụng duy nhất một subnet IP cho các PVC.
ARP (address resolution protocol), bạn có nhớ giao thức này dùng để làm gì? Khi chúng ta sử dụng ARP trên môi trường Ethernet, khi đó chúng ta cần biết về MAC address của máy đích mà chúng ta muốn truyền thông. ARP sẽ cho chúng ta một ánh xạ một IP với một MAC.
Frame-relay sử dụng inverse ARP để thay thế cho ARP nhưng nó có một số điểm khác nhau. Vấn đề ở đây là router chỉ biết số DLCI local của mình và không hề biết DLCI của router đầu bên kia của đám mây. Inverse ARP sẽ map DLCI local với địa chỉ IP của router phía bên kia đám mây.

Router Frodo trong ví dụ trên đã ánh xạ địa chỉ IP của router Gandalf (192.168.12.2) với địa chỉ DLCI local của mình là 102. Đó là inverse ARP. Hãy cùng tìm hiểu kỹ hơn về nó:

- Đầu tiên là các router sẽ kiểm tra kết nối bằng cách sử dụng LMI.
- Frame-relay switch sẽ phản hồi lại cho các router số DLCI local (hoặc bạn cũng có thể tự cấu hình bằng tay).

Khi các router đã biết về PVC đang ở trạng thái active, họ sẽ gửi một gói tin hello kém theo địa chỉ IP của mình. Trong hình trên, bạn chỉ thấy router Frodo gửi gói tin hello này. Tuy nhiên thì router Gandalf cũng sẽ thực hiện công việc tương tự.

Sau khi hoàn tất, Router Frodo sẽ biết phải gửi các lưu lượng tới địa chỉ 192.168.12.2 sẽ được gửi thông qua PVC với DLCI 102. Router Gandalf sẽ biết phải gửi các lưu lượng tới địa chỉ 192.168.12.1 sẽ được gửi thông qua PVC với DLCI 201.
Trên đây là nhưng kiến thức cơ bản về frame-relay và sau đầy chúng ta sẽ biết được những cách khác nhau để cấu hình chạy EIGRP chạy trên mạng frame-relay.
EIGRP over Frame-Relay

Sơ đồ mạng trên là một trong số các ví dụ chúng ta cùng khảo sát để hiểu về việc EIGRP over Frame-Relay (EIGRP chạy trên Frame-Relay). Trong ví dụ này, ta sử dụng mô hình có dạng kết nối Hub and Spoke, router Hub ở phía tay trái và 2 router spoke ở phía tay phải. Đây là mô hình mạng khá phổ biến của hub and spoke khi thực hiện các bài lab trên frame-relay.

Lại sử dụng mô hình mạng trên và sử dụng subnet 192.168.123.0/24 cho các kết nối giữa các router và địa chỉ các bạn có thể thấy như trên hình.
Khi chúng ta chỉ sử dụng một subnet duy nhất, chúng ta đang sử dụng mô hình kết nối dạng frame-relay point-to-multipoint. Và hãy chú ý, việc sử dụng frame-relay với các cổng interface vật lý thì ta đã mặc định sử dụng mô hình kết nối dạng frame-relay point-to-multipoint.

Đây là những lệnh cấu hình trên router Hub. Ở đây, chúng ta sẽ không đề cập đến việc cấu hình trên 2 router vì nó thật sự đơn giản. Bạn chỉ việc sử dụng các lệnh cấu hình căn bản của EIGRP và thay đổi phương thức encapsulation trên interface serial thành frame-relay mà thôi.

- Chúng ta không thực hiện việc cấu hình ánh xạ địa chỉ IP với DLCI nhưng vẫn thấy thông tin này có nghĩa rằng Inverse ARP được bật mặc định trên interface.
- “dynamic” có nghĩa là router sử dụng Inverse ARP cho việc ánh xạ.
- Từ khóa “broadcast” có nghĩa là việc “mô phỏng” gửi các lưu lượng broadcast đã hoạt động và bạn có thể sử dụng được multicast. Inverse ARP đã kích hoạt đồng thời khả năng này.

Để vô hiệu hóa Inverse ARP, chúng ta sử dụng câu lệnh no frame-relay inverse-arp trên interface. Chỉ đơn giản vậy thôi.

Bạn đừng quên xóa các ánh xạ trước đó đã học được từ Inverse ARP bằng lệnh clear framerelay inarp.
Tiếp theo, chúng ta sẽ thực hiện việc cấu hình bằng tay:

Cấu hình frame-relay map trên interface.
Hãy nhìn vào ô màu đỏ phía trên, bạn thấy đó là từ khóa “broadcast”, nếu không có từ khóa này trong câu lệnh thì mạng frame-relay của chúng ta chỉ chạy được unicast. Nếu bạn sử dung EIGRP, nếu bạn quên điều này thì bạn sẽ gặp rắc rối với các gói tin multicast.
Còn những gì bạn cần phải biết về frame-relay và EIGRP? Chúng ta đã làm việc trên interface vật lý và sau giờ chúng ta sẽ chuyển sang làm việc trên sub-interface:

- encapsulation type, chúng ta chỉ có thể cấu hình trên mode này
- Vô hiệu hóa Inverse ARP với câu lệnh no frame-relay inverse-arp.

Như chúng ta đã tìm hiểu ở phía trên, nếu không cấu hình có từ khóa “broadcast” thì EIGRP không thể hoạt động trong môi trường frame-relay do không gửi được các gói tin multicast. Vậy làm sao để EIGRP hoạt động bình thường? Có một cách khác để EIGRP vẫn có thể hoạt động, chỉ cần dùng lệnh neighbor. Nếu bạn cấu hình lệnh neighbor thì bạn đã chỉ đích danh láng giềng và EIGRP sẽ chuyển sang việc gửi các gói tin bằng unicast.

Như hình trên, chúng ta đã sử dụng lệnh neighbor để chỉ ra đích danh các láng giềng của router Hub, chúng ta cần cấu hình trên các router còn lại và như thế là chúng ta đã không cần dùng tới sử dụng đến multicast để gửi các gói tin. Với việc cấu hình như vậy, chúng ta có thể không sử dụng từ khóa “broadcast” trobg việc cấu hình ánh xạ frame-relay.
Đó là tất cả các tùy chọn việc cấu hình EIGRP chạy trên frame-relay sử dụng dạng kết nối multipoint với interface vật lý và sub-interface. Sau đây, ta sẽ tìm hiểu cách câu hình EIGRP chạy trên frame-relay sử dụng kết nối point-to-point trên sub-interface:

- Hub and Spoke1: 192.168.12.0 /24
- Hub and Spoke2: 192.168.13.0 /24

- Theo mặc định, EIGRP sử dụng bandwidth trên đường truyền có thể lên đến 50% bandwidth của interface cho các lưu lượng EIGRP.
- Tỷ lệ sử dụng bandwidth này của EIGRP có thể thay đổi được
- Đối với việc cấu hình Point-to-point interface:
- Bandwidth thực tế trên interface của kết nối T1 là 1.544Mbit.
- Phải cấu hình bandwidth phù hợp với bandwidth phù hợp với mỗi PVC trên thực tế.
- Đối với việc cấu hình Multipoint interface:
- Bandwidth trên interface vật lý phải được chia theo các bandwidth của router láng giềng phía bên kia đám may frame-relay.

Hình trên cho bạn thấy cách cấu hình để thay đổi bandwidth trên các sub-interface. Nếu bạn cấu hình thay đổi bandwidth trên interface vật lý thì không có ảnh hưởng gì tới các sub-interface. Vậy ta cần phải cấu hình thay đổi bandwidth thì cần phải làm trên mỗi sub-interface xác định.

Bạn có thể thấy được ảnh hưởng của việc sử dụng lệnh bandwidth bằng cách sử dụng lệnh show interface.

Bằng cách sử dụng lệnh ip bandwidth-percent eigrp, bạn có thể thay đổi tỷ lệ sử dụng bandwidth của EIGRP. Trong ví dụ, ta sử dụng ty lệ 25% cho EIGRP AS 123…
Bạn vẫn đang tiếp tục muốn hiểu thêm, vậy chúng ta hãy cùng nhau làm một số ví dụ về việc sử dụng bandwidth của EIGRP:

- PVC 1: CIR 128kbps
- PVC 2: CIR 128kbps
- PVC 3: CIR 256kbps
- PVC 4: CIR 64kbps
- Tìm trong mô hình của bạn, PVC nào có CIR thấp nhất. Ở đây là router Spoke4 với CIR 64kbps.
- Lấy 64kbps nhân với số lượng router spoke và lấy giá trị này cấu hình trên router Hub.

Nếu như bạn sử dụng mô hình multipoint interface, EIGRP sẽ chia đều việc sử dụng bandwidth cho các láng giềng của mình. Trong ví dụ, với mỗi PVC, EIGRP sẽ sử dụng bandwidth là 64kbps, là bandwidth của PVC thấp nhất trong mô hình.
Hãy cùng nhau nhìn vào mô hình tiếp theo:

Trong mô hình mạng trên, chúng ta có mô hình Hub and Spoke với 1 router Hub và 10 router Spoke. Tất cả các các PVC trong mô hình được cấu hình point-to-point và có CIR 64kbps. Trên interface router Hub đã cấu hình bandwidth chỉ có 256kbps.

Trên đây là cấu hình trên router Hub với cấu hình mẫu trên 3 sub-interface kết nối với 3 router Spoke đầu tiên. Cấu hình lệnh bandwidth trên interface vật lý và mỗi PVC được cấu hình theo dạng point-to-point sub-interface.
Điều gì sẽ xảy ra nếu trong cùng một thời điểm, router Hub truyền thông EIGRP với các router Spoke khác? 10x 64kbps là 640kbps tuy nhiên ta chỉ có 256kbps… Tuy nhiên bạn hãy nhớ rằng mặc định là EIGRP chỉ sử dụng 50% bandwidth tuy nhiên nó vẫn rất lớn… Chúng ta cần phải giải quyết vấn đề này.

Chúng ta sẽ cấu hình trên router Hub. Chúng ta chỉ có bandwidth trên interface vật lý là 256kbps, và trong mô hình có 10 kết nối point-to-point cho mỗi sub-interface có nghĩa là router Hub sẽ tự động chia bandwidth cho 10 PVC, vì vậy chúng ta không cần phải cấu hình bằng tay giá trị này trên các point-to-point sub-interface.
256 / 10 = 25kbps cho mỗi PVC…
Lược dịch “How to master CCNP – Route”
NGUYỄN VĂN HUY DŨNG
Don’t compare yourself with anyone in this world…if you do so, you are insulting yourself.
Bill Gates
When something is important enough, you do it even if the odds are not in your favor.